Chào mừng quý khách ghé thăm website của Công ty CP Định giá và Dịch vụ tài chính Việt Nam (VVFC)
Trang chủ |Sitemap |Check mail
banner
Tin tức
Hỗ trợ trực tuyến
Trụ sở chính
0804.2566 - 08043139
08044499 - 08042566
Fax:
024.38472271

Đẩy nhanh tiến độ cổ phần hóa doanh nghiệp nhà nước: Cần sự vào cuộc quyết liệt của người đứng đầu

Giai đoạn từ năm 2016 đến nay, cơ chế chính sách về cổ phần hóa doanh nghiệp nhà nước (DNNN) đã được sửa đổi, bổ sung và ngày càng hoàn thiện tạo cơ sở pháp lý đẩy nhanh tiến độ cổ phần hóa. Tuy nhiên, tiến độ cổ phần hóa vẫn chưa như kỳ vọng, một trong những nguyên chính được chỉ ra là do việc triển khai thực hiện và chấp hành cơ chế báo cáo ở một số Bộ, ngành, địa phương còn chưa thực sự nghiêm túc.

Cơ chế chính sách ngày càng hoàn thiện

Triển khai kế hoạch đề ra, từ năm 2016 đến nay, Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ đã chỉ đạo các Bộ, ngành nghiên cứu, xây dựng để ban hành hoặc trình cấp có thẩm quyền ban hành đầy đủ, đồng bộ hệ thống cơ chế chính sách, pháp luật về cổ phần hóa, cơ cấu lại DNNN kịp thời theo đúng quy định Luật Doanh nghiệp, Luật Quản lý, sử dụng vốn nhà nước đầu tư vào sản xuất, kinh doanh tại doanh nghiệp, Luật Chứng khoán, Luật Thực hành tiết kiệm chống lãng phí, Luật Đất đai… từ tiêu chí, danh mục phân loại DNNN, trình tự cổ phần hóa, phương pháp định giá, cơ chế đấu giá bán ra thị trường, chế độ, chính sách đối với người lao động…

Cụ thể: Ngày 16/11/2017, Chính phủ đã ban hành Nghị định số 126/2017/NĐ-CP về chuyển DNNN và Công ty TNHH MTV do doanh nghiệp nhà nước đầu tư 100% vốn điều lệ thành công ty cổ phần, có hiệu lực thi hành từ ngày 01/01/2018. Đồng thời Bộ Tài chính đã ban hành 02 Thông tư hướng dẫn Nghị định số 126/2017/NĐ-CP gồm Thông tư số 40/2018/TT-BTC và Thông tư số 41/2018/TT-BTC ngày 04/5/2018.

Nghị định và các Thông tư hướng dẫn đã tạo điều kiện để nâng cao hiệu quả hoạt động của doanh nghiệp nói chung và chuyển đổi doanh nghiệp 100% vốn nhà nước thành công ty cổ phần nói riêng trong thời gian tới, ngăn chặn thất thoát vốn và tài sản nhà nước, nhất là công tác xác định giá trị tài sản, đất đai của doanh nghiệp cổ phần hóa.

Tại Nghị định 126/2017/NĐ-CP đã quy định các tổ chức tư vấn định giá chủ động áp dụng các phương pháp định giá tiên tiến phù hợp với cơ chế thị trường, tổ chức tư vấn xác định giá trị doanh nghiệp được lựa chọn các phương pháp thích hợp để xác định giá trị doanh nghiệp và đảm bảo mỗi doanh nghiệp cổ phần hóa phải được áp dụng tối thiểu hai phương pháp xác định giá trị doanh nghiệp khác nhau trình cơ quan đại diện chủ sở hữu xem xét, quyết định; đồng thời hướng dẫn cụ thể việc áp dụng phương pháp xác định giá trị doanh nghiệp theo phương pháp tài sản là giá trị tối thiểu để cơ quan đại diện chủ sở hữu quyết định. Khi xác định giá trị đối với một số doanh nghiệp đặc thù, cơ quan tư vấn xác định để báo cáo cơ quan đại diện chủ sở hữu quyết định xác định giá trị thương hiệu dựa vào các yếu tố lịch sử, bề dày truyền thống.

Bên cạnh đó, để tăng cường công tác kiểm tra, giám sát quá trình cổ phần hóa, trọng tâm là khâu xác định giá trị doanh nghiệp, xác định giá trị quyền sử dụng đất đầy đủ vào giá trị doanh nghiệp cổ phần hóa, thúc đẩy việc nâng cao trách nhiệm và chất lượng của tư vấn độc lập, Nghị định đã bổ sung phạm vi, đối tượng phải thực hiện Kiểm toán nhà nước trước khi cơ quan có thẩm quyền công bố giá trị doanh nghiệp (doanh nghiệp có giá trị từ 1.800 tỷ đồng trở lên).

Về xử lý đất đai và xác định giá trị quyền sử dụng đất khi cổ phần hoá, doanh nghiệp phải hoàn thiện đầy đủ hồ sơ pháp lý phương án sử dụng đất trước khi cổ phần hóa, việc này đã khắc phục bất cập khi doanh nghiệp chuyển sang công ty cổ phần mới có ý kiến của địa phương về phương án sử dụng đất.

Ngày 31/12/2017, Chính phủ đã ban hành Nghị định số 167/2017/NĐ-CP quy định việc sắp xếp lại, xử lý tài sản công, trong đó đã hướng dẫn cụ thể về trình tự, thủ tục sắp xếp, xử lý nhà đất của các doanh nghiệp trong đó có doanh nghiệp cổ phần hóa.

Tóm lại, giai đoạn từ năm 2016 đến nay, cơ chế chính sách về cổ phần hóa DNNN đã được sửa đổi, bổ sung và ngày càng hoàn thiện, tạo cơ sở pháp lý đẩy nhanh tiến độ cổ phần hóa.
 

Ảnh minh họa: Nguồn Internet


Trong năm 2016, cả nước đã cổ phần hóa được 66 doanh nghiệp, trong đó có 15 doanh nghiệp cổ phần hóa cùng công ty mẹ, với tổng giá trị doanh nghiệp là 40.206 tỷ đồng, trong đó giá trị vốn nhà nước là 27.328 tỷ đồng.

Năm 2017, cả nước cổ phần hóa được 69 doanh nghiệp với tổng giá trị doanh nghiệp là 365.953 tỷ đồng, trong đó giá trị vốn nhà nước là 160.156 tỷ đồng.

Trong 9 tháng đầu năm 2018, có 11 doanh nghiệp được cấp có thẩm quyền phê duyệt phương án cổ phần hóa, trong đó cổ phần hóa 10 DNNN và 01 đơn vị sự nghiệp. Tổng giá trị doanh nghiệp là 29.634 tỷ đồng, trong đó giá trị vốn nhà nước là 15.329 tỷ đồng. Theo kế hoạch đã được Thủ tướng Chính phủ phê duyệt tại Công văn số 991/TTg-ĐMDN ngày 10/7/2017, năm 2018 phải hoàn thành cổ phần hóa ít nhất 85 doanh nghiệp (bao gồm: 21 doanh nghiệp thuộc danh mục năm 2017 và 64 doanh nghiệp thuộc danh mục năm 2018). Tiến độ cổ phần hóa 9 tháng đầu năm 2018 như vậy là chậm, có khả năng không đạt được số lượng theo kế hoạch đã được Thủ tướng Chính phủ phê duyệt.

Trao đổi về tiến độ cổ phần hóa vẫn chậm, ông Đặng Quyết Tiến, Cục trưởng Cục Tài chính doanh nghiệp, Bộ Tài chính cho biết, do tổ chức thực hiện và quyết tâm thay đổi nhận thức của người đứng đầu doanh nghiệp, hiện có 3 việc chưa làm được. Thứ nhất là tính kỷ luật chấp hành chỉ đạo của cấp trên, Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ chưa được thực hiện nghiêm. Thứ hai là còn tư tưởng e ngại, sự nhận thức trong việc đổi mới khi cổ phần hóa, thay đổi “bình mới, rượu mới” là bắt đầu có trường hợp chưa làm quyết liệt. Thứ ba là có tính ngại, khi làm một quy trình mới do đó phải làm chặt chẽ, công khai minh bạch, rõ ràng hơn và phải có nhiều bước đi hơn gắn với trách nhiệm người đứng đầu thì có tư tưởng e dè.

Thực tế cho thấy, việc triển khai thực hiện cổ phần hóa, cơ cấu lại doanh nghiệp trong thời gian qua theo ý kiến chỉ đạo của Thủ tướng Chính phủ và chấp hành cơ chế báo cáo ở một số Bộ, ngành, địa phương còn chưa thực sự nghiêm túc.

Bên cạnh đó là do các doanh nghiệp cổ phần hóa còn tồn tại nhiều vướng mắc về tài chính, đất đai, lao động trong giai đoạn trước cổ phần hóa cần phải có thời gian xử lý, làm kéo dài thời gian thực hiện cổ phần hóa.

Nguyên nhân khác là do các doanh nghiệp thuộc diện cổ phần hóa đang thực hiện rà soát toàn bộ quỹ đất đang quản lý, sử dụng để lập phương án sử dụng đất đai theo quy định của pháp luật đất đai trình cơ quan nhà nước có thẩm quyền phê duyệt trước khi quyết định cổ phần hóa doanh nghiệp. Một số tồn tại trong quá trình tổ chức thực hiện đã làm ảnh hưởng đến kết quả của quá trình cổ phần hoá như còn doanh nghiệp sử dụng nhiều diện tích đất, đất ở vị trí thuận lợi tại nhiều địa phương chưa thống nhất được phương án sử dụng đất với địa phương trước khi cổ phần hóa; thực tế quá trình các địa phương có ý kiến trả lời về phương án sử dụng đất và giá đất thường rất chậm dẫn đến việc phải kéo dài thời gian, điều chỉnh tiến độ cổ phần hóa, một số địa phương chưa kiên quyết trong việc thu hồi, xử lý đất đai của các doanh nghiệp sử dụng đất không đúng mục đích, vi phạm pháp luật về đất đai.

Mới đây trong phiên trả lời chất vấn đại biểu Quốc hội tại Kỳ họp thứ 6 Quốc hội khoá XIV liên quan đến vấn đề quản lý đất đai trước và sau cổ phần hóa, Bộ trưởng Bộ Tài chính Đinh Tiến Dũng cho biết, việc xác định giá trị quyền sử dụng đất của doanh nghiệp cổ phần hóa được thực hiện theo quy định của pháp luật về đất đai trong từng thời kỳ. Theo đó, trước năm 2011 quy định đất thuê trả tiền hàng năm phải tính giá trị vị trí địa lý và giá trị doanh nghiệp. Từ sau năm 2011 đến nay, theo quy định của Luật Đất đai 2013 đã điều chỉnh lại việc tính tiền thuê đất sát với thị trường và doanh nghiệp phải nộp ngân sách phần chênh lệch.

Việc quản lý sử dụng chặt chẽ đất đai sau cổ phần hóa ở mỗi địa phương, mỗi địa bàn trước hết thuộc trách nhiệm của Ủy ban nhân dân cấp tỉnh. Trên thực tế một số doanh nghiệp sau cổ phần hóa đã lợi dụng chính sách quản lý đất đai của Nhà nước, như việc di dời cơ sở ô nhiễm ra khỏi nội đô để chuyển đổi mục đích sử dụng đất mà không thực hiện việc thu hồi để đấu giá.

Trước tình hình đó, Chính phủ đã ban hành Nghị định số 126/2017/NĐ-CP, theo đó phương án sử dụng đất của doanh nghiệp cổ phần hóa phải được cơ quan Nhà nước có thẩm quyền xem xét, phê duyệt trước thời điểm quyết định cổ phần hóa và sau cổ phần hóa thì công ty cổ phần phải thực hiện quản lý và sử dụng đất của doanh nghiệp theo đúng mục đích và phương án đã được phê duyệt. Trường hợp chuyển đổi mục đất sử dụng đất thì thực hiện thu hồi để đấu giá theo quy định.

Bên cạnh đó, việc quản lý sử dụng đất cơ bản không ảnh hưởng đến tiến trình cổ phần hóa. Tại Nghị định 126/2017/NĐ-CP đã quy định rõ các địa phương nơi doanh nghiệp cổ phần hóa có sử dụng đất phải phê duyệt phương án sử dụng đất của doanh nghiệp sau cổ phần hóa. Tuy nhiên thực tế triển khai có những doanh nghiệp sử dụng đất đai ở nhiều địa phương nên bị chậm.
 

Tập trung hoàn thành kế hoạch cổ phần hóa theo tiêu chí phân loại DNNN

Nhằm tiếp tục phát huy các kết quả đạt được trong thời gian qua, trong giai đoạn tới để tiếp tục đẩy mạnh công tác cổ phần hóa, các Bộ, ngành, địa phương, các Tập đoàn, tổng công ty nhà nước cần tiếp tục hoàn thiện thể chế khuôn khổ pháp lý về tổ chức quản lý và hoạt động của các DNNN phù hợp với vị trí, vai trò và mục tiêu của DNNN trong giai đoạn 2016 - 2020, tạo điều kiện nâng cao hiệu quả hoạt động sản xuất kinh doanh và thực hiện nhiệm vụ được giao; đáp ứng yêu cầu quản lý nhà nước trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa.

Cụ thể như: Tập trung hoàn thành kế hoạch cổ phần hóa theo tiêu chí phân loại DNNN, doanh nghiệp có vốn nhà nước, coi đây là nhiệm vụ trọng tâm trong giai đoạn đến năm 2020. Nghiêm túc thực hiện đúng quy định của pháp luật và cơ chế thị trường trong cổ phần hoá; không để xảy ra tiêu cực, lợi ích nhóm, thất thoát vốn, tài sản.

Thường xuyên rà soát, cập nhật Danh mục DNNN thực hiện cổ phần hóa theo từng năm giai đoạn 2017 - 2020 theo nguyên tắc: Nhà nước chỉ giữ lại những doanh nghiệp có vai trò then chốt, thiết yếu trong nền kinh tế; những địa bàn quan trọng và quốc phòng, an ninh; những lĩnh vực mà doanh nghiệp thuộc các thành phần kinh tế khác không đầu tư; các doanh nghiệp còn lại thì giảm tỷ lệ sở hữu nhà nước xuống mức đủ để thay đổi quản trị một cách thực chất và thu hút nhà đầu tư có năng lực thực sự; tối đa hóa giá trị bán vốn nhà nước theo cơ chế thị trường.

Đối với các doanh nghiệp không đủ điều kiện để thực hiện cổ phần hóa thì xem xét áp dụng các hình thức sắp xếp khác như bán, khoán, cho thuê, giải thể, áp dụng biện pháp phá sản theo quy định của pháp luật đối vớiDNNN lâm vào tình trạng phá sản mà không có phương án tái cơ cấu khả thi.

Đối với các DNNN đang được giao quản lý, khai thác các công trình, dự án kết cấu hạ tầng do Nhà nước đầu tư có ý nghĩa quan trọng về kinh tế, xã hội, quốc phòng, an ninh, khi cổ phần hóa, Nhà nước tiến hành kiểm soát theo nguyên tắc: Nhà nước thống nhất sở hữu các công trình hạ tầng quan trọng; doanh nghiệp cổ phần hóa, nhà đầu tư nhận quyền khai thác chỉ được quyền quản lý, vận hành, khai thác các công trình, dự án kết cấu hạ tầng; việc lựa chọn nhà đầu tư, doanh nghiệp phải thực hiện theo Luật Đấu thầu, công khai, minh bạch; bảo đảm quốc phòng, an ninh và bảo vệ chủ quyền quốc gia, toàn vẹn lãnh thổ.

Bộ trưởng, Thủ trưởng cơ quan ngang bộ, cơ quan thuộc Chính phủ, Chủ tịch Ủy ban nhân dân các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương, Chủ tịch Hội đồng thành viên tập đoàn kinh tế, tổng công ty, doanh nghiệp nhà nước chịu trách nhiệm trước Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ trong việc hoàn thành kế hoạch sắp xếp, cơ cấu lại, cổ phần hóa và xử lý dứt điểm tồn tại để nâng cao hiệu quả hoạt động, coi đây là nhiệm vụ chính trị quan trọng cần tập trung chỉ đạo hoàn thành. Xử lý nghiêm lãnh đạo DNNN, người đại diện phần vốn nhà nước tại doanh nghiệp không nghiêm túc thực hiện, không hoàn thành kế hoạch sắp xếp, cơ cấu lại, cổ phần hóa và nhiệm vụ được giao trong việc quản lý điều hành doanh nghiệp, không thực hiện báo cáo tiến độ triển khai cơ cấu lại theo quy định.
 

Theo Trần Hải - www.mof.gov.vn
Ban Biên tập VVFC - Tiền thân là Trung tâm Thẩm định giá - Bộ Tài chính.

Các bài viết khác
logos 25 năm
Công ty Cổ phần Định giá và Dịch vụ tài chính Việt Nam VVFC
Số 03 Thụy Khuê, phường Thụy Thuê, quận Tây Hồ, TP.Hà Nội
Điện thoại: (024)38432171 - 08042566 - 08044499 - 08043139
Fax: (024)38472271 - (024)37281550
Chi nhánh Miền Nam
49 Pasteur (lầu 7), phường Nguyễn Thái Bình, Quận 1, TP Hồ Chí Minh
Điện thoại: (028)3940 7286, (028)6291 0500, (028)38218874
Fax: (028)3940 7187
Trung tâm Thẩm định giá và Đấu giá - VVFC Hà Nội
Số 3, Thụy Khuê, Tây Hồ, Hà Nội
Điện thoại: (024)3556 0226/227
Fax: (024)3556 1817
Chi nhánh Hải Phòng
25 Nguyên Hồng, Phường Lam Sơn, Quận Lê Chân, Thành phố Hải Phòng.
Điện thoại: (0225) 371 5129
Fax: (0225) 371 5127
Chi nhánh Bắc Trung Bộ
Số 15A Lê Khôi, Phường Lam Sơn, TP. Thanh Hóa, Tỉnh Thanh Hóa
Điện thoại: (0237) 372 0628
Fax: (0237) 372 0618
Chi nhánh Miền Trung và Tây Nguyên
140 Ngô Quyền, TP Buôn Mê Thuột, tỉnh Đăk Lăk
Điện thoại: (0262) 384 3383
Fax: (0262) 384 3382

© 2015 VVFC. All Right Reserved
Designed by Thietkeweb - Seo